Mô tả và sinh thái Chrysopidae

Head close-up of unidentified Chrysopa sp. from Austins Ferry, Tasmania, Australia

Những loài Chuồn chuồn cỏ ở châu Âu có thể sải cánh dài từ 6 đến 35 mm, các loài ở vùng nhiệt đới có thể kéo dài cánh hơn 65 mm. Cánh rộng xòe như màn ren với những đường gân và tĩnh mạnh xuyên trên lá cánh của chúng. Thân hình mỏng manh thường màu xanh lá cây hay xanh lá cây-nâu và mắt hợp chất có màu vàng ở nhiều loài.

Trứng của loài ChrysopidaeCánh 3 tầng giống renTrứng và ấu trùng Chrysopidae, rất khó nhìn rõ với mắt thườngMột ấu trùng lớn (phóng to) đang tấn công một con rệp

Trứng được đẻ vào ban đêm, từng chiếc đơn lẻ hoặc từng chùm nhỏ, một con cái có thể sinh sản khoảng 100-200 trứng, có loài đến 700 trứng [3]. Trứng được đặt trên các nhánh cây, thường là gần những nơi có nhiều rệp. Trứng từng được treo trên một ống tơ trong suốt và mảnh dài khoảng 1 cm, thường là ở mặt dưới của lá. Ngay lập tức sau khi nở, ấu trùng thay lông, sau đó lên ống tơ của trứng để sống. Các ấu trùng của Chrysopidae là giống như con sâu bướm và có một hình dạng cơ thể đặc biệt. Cơ thể là một hình tam giác, mặt trước rộng hơn so với phía sau và nhô cao lên. Các ấu trùng trẻ trông có vẻ khác nhiều so với con lớn, cơ thể là không màu và có phần trong suốt.[3], cơ thể cũng được trang bị với các chân khớp nối (càng) và tương đối lớn, và rậm lông cứng [3]. Chúng là những kẻ săn mồi phàm ăn, tấn công hầu hết các côn trùng có kích thước phù hợp, đặc biệt là thân mềm (rệp, sâu bướm và ấu trùng côn trùng khác, trứng côn trùng, và với nếu thiếu ăn khi mật độ cao, chúng có thể tấn công cả đồng loại). Do đó, ấu trùng còn được gọi thông tục là "sư tử rệp" ("aphidlions") hoặc "chó sói rệp" ("aphid wolves"), tương tự như các Kiến sư tử tương tự. Giác quan của chúng phát triển một cách rất yếu, ngoại trừ việc chúng rất nhạy cảm khi đụng chạm. Di chuyển xung quanh và lắc lư đầu từ hướng này sang hướng khác, và khi chúng tấn công một con mồi tiềm năng, ấu trùng nắm ngay lấy nó. Hàm trên của chúng trống rỗng, cho phép một chất bài tiết tiêu hóa được tiêm vào con mồi, làm tiêu hủy các cơ quan của rệp bằng cách này trong khoảng 90 giây. Tùy thuộc vào điều kiện môi trường, ấu trùng cần khoảng 1-3 tuần để hóa nhộng nằm trong một cái kén; loài từ các vùng ôn đới thường qua mùa đông như một con nhộng con, trong khi loài Chrysoperla carnea qua mùa đông như một con mới trưởng thành.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chrysopidae http://www.cirrusimage.com/neuroptera_green_lacewi... http://books.google.com/books?id=iIHSqAgnmUIC&prin... http://www.mapress.com/zootaxa/2007f/zt01486p084.p... http://insects.tamu.edu/research/neuropterida/neur... http://insects.tamu.edu/research/neuropterida/neur... http://www.gmo-safety.eu/news/582.maize-pollen-pos... http://www.helsinki.fi/~mhaaramo/metazoa/protostom... http://actazool.nhmus.hu/48Suppl2/newlacev.pdf http://vnexpress.net/gl/doi-song/cau-chuyen-cuoc-s... http://digitallibrary.amnh.org/dspace/bitstream/22...